Tổng số lượt xem trang

Thứ Sáu, 24 tháng 12, 2010

Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất?

Lực lượng sản xuất là khái niệm dùng để chỉ việc con người chinh phục giới tự nhiên bằng tất cả sức mạnh hiện thực của mình trong quá trình thực hiện sự sản xuất xã hội, là cái nói lên năng lực của con người trong quá trình sản xuất tạo ra của cải xã hội .
Lực lượng sản xuất được tạo thành do sư kết hợp giữa lao động với tư liệu sản xuất mà trước hết là với công cụ lao động, cũng như khoa học .
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong sản xuất và tái sản xuất, bao gồm : các quan hệ sở hửu đối với tư liệu sản xuất, các quan hệ trong tổ chứcquản lý và sản xuất, các quan hệ trong phân phối sản phẩm sản xuất .
Quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất phụ thuộc và tác động lẫn nhau một cách biện chứng và biểu hiện thành một trong những quy luật cơ bản nhất của sự vận động của đời sống xã hội .
Sự biến đổi cửa sản xuất luôn luôn theo chiều tiến bộ, và xét cho cũng bắt đầu từ sự biến đổivà phát triển của lực lượng sản xuất, trước hết là công cụ lao động . Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất cũng hình thành và biến đổi cho phù hợp với trình độ của lực lượng sản
xuất . Đương nhiên, khi trình độ của lực lượng sản xuất phát triển thì tính chất của cũng phát triển theo .
Trình độ của lượng sản xuất là khái niệm nói lên khả năng của con người thực hiện quá trình biến đổi và thích nghi với giới tự nhiên nhằm bảo đảm cho sự sinh tồn và phát triển của mình thông qua công cụ lao động . Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là sản phẩmcủa sự kết hợp giữa các nhân tố:
•Trình độ của công cụ lao động
•Trình độ tổ chức lao động xã hội
•Trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất
•Trình độ kinh nghiệm và kỹ năng lao động của con người
•Trình độ phân công lao động
Tính chất của lực lượng sản xuất là khái niệm nêu lên tính chất xã hội hoá của tư liệu sản xuất và của lao động . Ứng dụng với sự phát triển của nền sản xuất xã hội được thể hiện thông qua sự phát triển của công cụ lao động, tính chất xã hội của lực lượng sản xuất cũng biến đổi . Tuy vậy, trong nền sản xuất xã hội đôi khi trình độ phát triển của lực lượng sản xuất không đi đôi với tính chất xã hội hoá của nó .
Tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất phản ánh khả năng chinh phục giới tự nhiên của con người : khả năng này chỉ đạt tới đỉnh cao khi quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lượng sản xuất .
Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lượng sản xuất là một trạng thái trong đó các yếu tố cấu thành quan hệ sản xuất tạo địa bàn đầy đủ cho lực lượng sản xuất phát triển . Chỉ khi nào cả ba mặt của quan hệ sản xuất thích ứng với trình độ của lực lượng sản xuất, tạo điều kiện tốt nhất cho việc sử dụng và kết hợp giữa lao động và tư liệu sản xuất thì sẽ tạo ra cơ sở phát triển hết khả năng của ực lượng sản xuất .
Khi lực lượng sản xuất phát triển đến một trình độ mới với tính chất xã hội hoá ở mức cao hơn sẽ xuất hiện mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất sẽ chuyển thành không phù hợp . Mâu thuẫn càng trở nên gay gắt tất yếu sẽ dẫn tới việc xã hội phải xoá bỏ bằng cách này hay cách khác quan hệ sản xuất cũ và thay bằng quan hệ sản xuất mới, phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất đã thay đổi, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển . Điều này sẽ dẫn tới sự diệt vong của phương thức sản xuất cũ và sự ra đời của phương thức sản xuất mới .
Như vậy, lượng sản xuất quyết định sự hình thành và phát triển của quan hệ sản xuất, một khi lượng sản xuất đã biến đổi thì sớm hay muộn thì quan hệ sản xuất cũng phải biến đổi cho phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất mới .
Tuy vậy, quan hệ sản xuất cũng thể hiện tính độc lập tương đối với lượng sản xuất . Quan hệ sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất, quy định mục đích xã hội của sản xuất, tác động đến khuynh hướng phát triển của công nghệ . Tren cơ sở đó hình thành một hệ thống những yếu tố thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của một lực lượng sản xuất . Khi quan hệ sản xuất phù hợp, phát triển hợp lý và đồng bộ với lực lượng sản xuất thì sẽ thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, trong trường hợp ngược lại, quan hệ sản xuất sẽ kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển . Nếu quan hệ sản xuất lạc hậu hơn hoặc “tiên tiến” hơn một cách giả tạo cũng sẽ làm cho lực lượng sản xuất không phát triển . Khi mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất đã trở nên gay gắt, đòi hỏi phải giải quyết, song con người không phát hiện được, hay khi đã phát hiện được mà không giải quyết, hoặc giải quyết một cách sai lầm …thì không thể phát triển được lực lượng sản xuất, thậm chí còn phá hoại lực lượng sản xuất .
Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất là quy luật phổ biến tác động tới toàn bộ quá trình phát triển của lịch sử loài người từ xã hội công xã nguyên thuỷ đến xã hội cộng sản tương lai và là quy luật cơ bản nhất trong hệ thống các quy luật xã hội .

con-đường-biện-chứng-của-nhận-thức-chân-lý

http://www.wattpad.com/541153-con-%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng-bi%E1%BB%87n-ch%E1%BB%A9ng-c%E1%BB%A7a-nh%E1%BA%ADn-th%E1%BB%A9c-ch%C3%A2n-l%C3%BD

Câu 33: Phân tích nội dung cơ bản của cặp phạm trù vật chất và hiện tượng, ý nghĩa của việc nghiên cứu cặp phạm trù này

.Trả lời: 1. Phân tích nội dung cơ bản của cặp pham trù bản chất và hiện tượng:
a. Khái niệm:
- Bản chất là phạm trù dùng để chỉ tổng hợp tất cả các mặt các mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định ở bên trong sự vật quy định, sự vận động và phát triển của sự vật đó.
- Hiện tượng là những mối liên hệ biểu hiện ra bên ngoài của một bản chất nhất định.
b. Mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng.
- Bản chất và hiện tượng tồn tại khách quan mỗi sự vật đều là sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng. Bản chất và hiện tượng về căn bản phù hợp với nhau thể hiện:
+ Bất kỳ bản chất nào cũng được bộc lộ ra qua những hiện tượng tương tự và bất cứ hiện tượng nào cũng là sự bộc lộ của bản chất ở mức độ nào đó hoặc ít hoặc nhiều.+ Bản chất nào thì hiện tượng ấy và ngược lại, bản chất là khác nhau sẽ biểu hiện ở nưững hiện tượng khác nhau. Bản chất thay đổi thì hiện tượng cũng thay đổi theo sớm hay muộn.- Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng là sự thống nhất mang tính mâu thuẫn.
+ Bản chất phản ánh cái chung tất yếu, quyết định sự tồn tại và phát triển của sự vật còn hiện tượng phản ánh cái cá biệt, hiện tượng phong phú hơn bản chất ngược lại bản chất sâu sắc hơn hiện tượng. Vì vậy cùng một bản chất có thể biểu hiện ra ngoài bằng vô số hiện tượng khác nhau tùy theo sự biến đổi của điều kiện và hoàn cảnh.
+ Bản chất bao giờ cũng là mặt bên trong ẩn dấu sâu xa của sự vật, còn sự vật là sự biểu hiện của bản chất đó ra bên ngoài nhưng biểu hiện dưới hình thức đã cải biến nhiều khi xuyên tạc bản chất. Hiện tượng là sự biểu hiện của bản chất cơ bản phù hợp với bản chất nhưng không bao giờ phù hợp hoàn toàn. Chúng biểu hiện bản chất không phải đăng nguyên như bản chất vốn có, mà dưới hình thức cải biến nhiều khi xuyên tạc nội dung thực sự của bản chất.
+ Bản chất tương đối ổn định, biến đổi chậm, còn hiện tượng không ổn định nó biến đổi nhanh hơn so với bản chất.
2. ý nghĩa.Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng giúp cho chúng ta có thể tìm ra quy luật vận động của sự vật thông qua hiện tượng.Muốn nhận thức đúng đắn về sự vật không được dừng lại ở vẻ bề ngoài của sự vật, ở một vài hiện tượng đơn lẻ mà cần phải phân tích một cách tổng thể các hiện tượng để đi sâu tìm ra bản chất thực sự của nó. Không được lẫn lộn hiện tượng với bản chất. Quá trình tìm hiểu bản chất của sự vật là quá trình rất phức tạp lâu dài, đó là quá trình con người phải đi từ hiện tượng đến bản chất từ bản chất ít sâu sắc đến bản chất sâu sắc và cứ thế liên tục mãi.

Câu 31: Phân tích nội dung cơ bản của các phạm trù nguyên nhân và kết quả. ý nghĩa của việc nghiên cứu các phạm trù này

.Trả lời: Nguyên nhân là sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vạt hoặc giữa các sự vật với nhau gây ra một biến đổi nào đó.- Kết quả là một hiện tượng mới xuất hiện có một hoặc nhiều nguyên nhân gây ra.
- Điều kiện không trực tiếp sinh ra kết quả nhưng lại không thể thiếu được cho sự xuất hiện của kết quả điều kiện tham gia một cách chủ yếu vào quá trình sinh ra kết quả.
- Nguyên cớ là hiện tượng không gây ra kết quả nhưng xúc tiến việc xuất hiện kết quả có liên hệ bề ngoài giả tạo với kết quả.
- Mối liên hệ nhân quả là mối liên hệ ngay trong sự vật độc lập với ý thức của con người.- Quan hệ nhân quả đòi hỏi phải có những điều kiện nhất định kết quả ra đời sau khi nguyên nhân đã phát triển đến một mức độ nhất định.
a. Mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả.
- Nguyên nhân là cái sinh ra kết quả vì vậy nguyên nhân phải có trước kết quả
- Một nguyên nhân nhất định trong những hoàn cảnh nhất định chỉ có thể gây ra kết quả nhất định và mọi kết quả nhất định bao giờ cũng sinh ra bởi nguyên nhân xác định, nếu các nguyên nhân và hoàn cảnh càng ít khác nhau bao nhiêu thì các kết quả do chúng gây nên cũng càng ít khác nhau bấy nhiêu.Mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả là mối quan hệ phức tạp.
+ Thứ nhất: cùng một nguyên nhân có thể gây ra nhiều kết quả khác nhau tuỳ thuộc vào hoàn cảnh cụ thể.
+ Thứ hai: cùng một kết quả có thể gây nên bởi những nguyên nhân khác nhau tác đông riêng lẻ hay tác động cùng một lúc lên sự vật thì hiệu quả tác động của từng nguyên nhân với sự hình thành kết quả xẽ khác nhau tuỳ vào hướng tác động của nó.Nếu nguyên nhân tác đông lên sự vật cùng môi trường thì chúng sẽ gây lên ảnh hưởng cùng chiều với sự hình thành kết quả.
- Ngược lại nếu các nguyên nhân khác nhau tác đông lên sự vật theo các hướng khác nhau thì chúng sẽ làm suy yếu, thậm chí hoàn toàn tiêu diệt tác dụng của nhau.
- Tác động trở lại của kết quả đối với nguyên nhân, kết quả có thể tạo được nguyên nhân. Mối quan hệ nhân quả là một chuỗi những sự nối tiếp giữa nguyên nhân và kết quả. Không có nguyên nhân đầu tiên và không có kết quả cuối cùng.
- Trong những điều kiện nhất định nguyên nhân và kết quả có thể chuyển hóa cho nhau, trong mối quan hệ này là nguyên nhân thì trong mối quan hệ khác là kết quả và ngược lại.
b) ý nghĩa của việc nghiên cứu cặp phạm trù này:
- Tính nhân quả là tính khách quan và quy luật con người có thể nhận thức, vận dụng nó để đạt được mục đích của mình, tạo điều kiện cho nguyên nhân đi đến kết quả và ngược lại, đồng thời hạn chế hoặc tiêu diệt những nguyên nhân, những điều kiện sinh ra hiện tượng xấu.
- Cải tạo sự vật hay xóa bỏ sự vật chính là cải tạo hay xóa bỏ nguyên nhân sinh ra nó.
- Mỗi sự vật, hiện tượng có thể do nhiều nguyên nhân sinh ra. Những nguyên nhân này có vị trí rất khác nhau trong việc hình thành kết quả. Vì vậy trong hoạt động thực tiễn chúng ta cần phải phân loại, xác định vai trò, vị trí của từng loại nguyên nhân để có những biện pháp giải quyết đúng đắn.
- Tìm nguyên nhân xuất hiện của một hiện tượng nào đó, phải tìm trong chính hiện tượng đó và phải tìm những sự tác động của các mặt, các mối liên hệ có trước đó.

Câu 30: Phân tích nội dung cơ bản của các cặp phạm trù cái chung và cái riêng. ý nghĩa của việc nghiên cứu cặp phạm trù này

Trả lời: Khái niệm:- Cái riêng: Là một phạm trù triết học dùng để chỉ định sự vật, một hiện tượng, một quá trình riêng lẻ nhất định.- Cái chung: Là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ giống nhau được lặp lại trong nhiều sự vật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ.- Cái đơn nhất là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính, những mối quan hệ giống nhau được lập lại trong nhiều sự vật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ.- Cái đơn nhất là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính vốn có chỉ ở mọi sự vật hiện tượng, không lặp lại ở các sự vật hiện tượng khác. Nhờ cái đơn nhất mà con người có thể phân biệt được cái riêng này với cái riêng khác.- Theo quan điểm của CNDVBC mối quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung thể hiện như sau:Thứ nhất: Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng thông qua cái riêng. Điều đó có nghĩa là cái chung thực sự tồn tại, nhưng nó chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng chứ không tồn tại biệt lập, bên ngoài cái riêng.Thứ hai: Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ dẫn tới cái chung. Điều đó có ý nghĩa là cái riêng tồn tại độc lập nhưng sự tồn tại độc lập đó không có nghĩa cái riêng hoàn toàn cô lập với cái khác. Ngược lại, bất kỳ cái riêng nào cũng nằm trong mối liên hệ dẫn tới cái chung. Cái riêng không những chỉ tồn tại cái riêng hoàn toàn cô lập với cái khác. Ngược lại, bất kỳ cái riêng nào cũng nằm trong mối liên hệ dẫn tới cái chung. Cái riêng không những chỉ tồn tại trong mối liên hệ dẫn tới cái chung, mà thông qua hàng nghìn sự chuyển hóa, nó còn liên hệ với cái riêng thuộc loại khác.Thứ ba: Cái chung là bộ phận của cái riêng còn cái riêng không ra nhập hết vào cái chung vì bên cạnh các thuộc tính được lặp lại các sự vật khác, tức là bên cạnh cái chung bất cứ cái riêng nào cũng còn chứa đựng những cái đơn nhất tức là những nét, những mặt, những thuộc tính... chỉ vốn có ở nó và không tồn tại ở bất kỳ sự vật nào khác. Cái riêng phong phú hơn cái chung, còn cái chung sâu sắc hơn cái riêng.Thứ tư: Trong quá trình phát triển khách quan, trong những điều kiện nhất định cái đơn nhất có thể chuyển hóa thành cái chung và ngược lại. Sự chuyển hóa từ cái đơn nhất thành cái chung đó là sự ra đời của cái mới. Sự chuyển hóa từ cái chung thành cái đơn nhất đó là sự mất dần đi cái cũ.* ý nghĩa của việc nghiên cứu cặp phạm trù này. Cái chung và cái riêng gắn bó chặt chẽ không thể tách rời nên:- Không được tách cái chung ra khỏi cái riêng. Không được tuyệt đối hóa cái chung. Nếu tuyệt đối hóa cái chung sẽ mắc phải quan điểm sai lầm tả khuynh giáo điều. Muốn tìm ra cái chung phải nghiên cứu từng cái riêng, thông qua cái riêng. Phê phán quan điểm sai lầm của phái duy thực: cho rằng chỉ tồn tại cái chung không phụ thuộc vào cái riêng và sinh ra cái riêng. Cái riêng thì hoặc là không tồn tại, hoặc nếu có tồn tại thì cũng là do cái chung sinh ra va chỉ tạm thời. Cái riêng sinh ra và chỉ tồn tại trong một thời gian nhất định rồi mất đi, cái chung mới là cái tồn tại vĩnh viễn.- Không được tách rời cái riêng ra khỏi cái chung, không được tuyệt đối hóa cái riêng. Nếu tuyệt đối hóa cái riêng sẽ mắc phải quan điểm sai lầm hữu khuynh xét lại, phê phán quan điểm sai lầm của phái duy danh cho rằng chỉ có cái riêng là tồn tại thực sự còn cái chung chẳng qua chỉ là những tên gọi do lý trí đặt ra trong nhận thức và hoạt động thực tiễn chúng ta phải biết phát hiện ra cái chung gắn liền với bản chất, quy luật vận động phát triển của sự vật.- Phải phát triển ra cái mới tiêu biểu cho sự phát triển và tạo điều kiện cho nó phát triển trở thành cái chung. Ngược lại, hạn chế và đi đến xóa bỏ dần những cái cũ đã lỗi thời, lạc hậu

ba-quy-luật-của-phép-biện-chứng-duy-vật-ý-nghĩa

http://www.wattpad.com/225980-c%C3%A2u-7-ba-quy-lu%E1%BA%ADt-c%E1%BB%A7a-ph%C3%A9p-bi%E1%BB%87n-ch%E1%BB%A9ng-duy-v%E1%BA%ADt-%C3%BD-ngh%C4%A9a

Ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ giữa vật chất với ý thức?

Đáp. Câu trả lời gồm ba ý lớn 1) Vai trò quy định của vật chất đối với ý thức
a) Vật chất là cái thứ nhất, ý thức là cái thứ hai, nghĩa là vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau; Vật chất quy định ý thức cả
về nội dung phản ánh lẫn hình thức biểu hiện. Điều này thể hiện ở +) vật chất sinh ra ý thức (ý thức là sản phẩm của não người; ý
thức có thuộc tính phản ánh của vật chất) +) vật chất quyết định nội dung của ý thức (ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất; nội
dung của ý thức (kể cả tình cảm, ý chí v.v) đều xuất phát từ vật chất; sự sáng tạo của ý thức đòi hỏi những tiền đề vật chất và tuân
theo các quy luật của vật chất).
b) Tồn tại xã hội (một hình thức vật chất đặc biệt trong lĩnh vực xã hội) quy định ý thức xã hội (một hình thức ý thức đặc biệt trong
lĩnh vực xã hội).
c) Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất vào não người trong dạng hình ảnh chủ quan về thế giới khách quan; hình thức biểu hiện
của ý thức là ngôn ngữ (một dạng cụ thể của vật chất).
2) Vai trò tác động ngược trở lại của ý thức đối với vật chất
a) Sự tác động của ý thức đối với vật chất có thể theo hướng tích cực (khai thác, phát huy, thúc đẩy được sức mạnh vật chất tiềm
tàng hoặc những biến đổi của điều kiện, hoàn cảnh vật chất theo hướng có lợi cho con người) thể hiện qua việc ý thức chỉ đạo con
người trong hoạt động thực tiễn. Sự chỉ đạo đó xuất hiện ngay từ lúc con người xác định đối tượng, mục tiêu, phương hướng và
phương pháp thực hiện những mục tiêu đề ra. Trong giai đoạn này, ý thức trang bị cho con người những thông tin cần thiết về đối
tượng, về các quy luật khách quan và hướng dẫn con người phân tích, lựa chọn những khả năng vận dụng những những quy luật
đó trong hành động. Như vậy, ý thức hướng dẫn hoạt động của con người và thông qua các hoạt động đó mà tác động gián tiếp lên
thực tại khách quan.
b) Sự tác động ngược lại của ý thức đối với vật chất có thể theo hướng tiêu cực, trước hết do sự phản ánh không đầy đủ về thế
giới đó dẫn đến những sai lầm, duy ý chí thể hiện qua việc ý thức có thể kìm hãm sức mạnh cải tạo hiện thực thực khách quan của
con người, nhất là trong lĩnh vực xã hội (làm suy giảm, hao tổn sức mạnh vật chất tiềm tàng, kìm hãm quá trình phát triển kinh tế-xã
hội, gây ảnh hưởng xấu đến đời sống của con người).
c) Những yếu tố ảnh hưởng đến sự tác động của ý thức đối với vật chất +) Nếu tính khoa học của ý thức càng cao thì tính tích cự
của ý thức càng lớn. Trước hết đó là ý thức phải phản ánh đúng hiện thực khách quan; nghĩa là con người muốn phát huy sức
mạnh của mình trong cải tạo thế giới thì phải tôn trọng các quy luật khách quan, phải nhận thức đúng, nắm vững, vận dụng đúng và
hành động phù hợp với các quy luật khách quan. +) Sự tác động của ý thức đối với vật chất còn phụ thuộc vào mục đích sử dụng ý
thức của con người.
Như vậy, bản thân ý thức không trực tiếp thay đổi được hiện thực mà phải thông qua hoạt động của con người. Sức mạnh của ý
thức tùy thuộc vào mức độ thâm nhập vào quần chúng, vào các điều kiện vật chất, vào hoàn cảnh khách quan mà trong đó ý thức
được thực hiện. Muốn biến đổi và cải tạo thế giới khách quan, ý thức phải được con người thực hiện trong thực tiễn và chỉ có như
vậy, ý thức mới trở thành lực lượng vật chất.
3) Ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ giữa vật chất với ý thức. Nguyên tắc khách quan trong hoạt động nhận thức và hoạt
động thực tiễn. Nguyên tắc khách quan yêu cầu
a) Mục tiêu, phương thức hoạt động của con người đều phải xuất phát từ những điều kiện, hoàn cảnh thực tế, đặc biệt là của điều
kiện vật chất, kinh tế; tuân theo, xuất phát, tôn trọng các quy luật khách quan (vốn có) của sự vật, hiện tượng; cần tìm nguyên nhân
của các sự vật, hiện tượng ở trong những điều kiện vật chất khách quan của chúng; muốn cải tạo sự vật, hiện tượng phải xuất phát
từ bản thân sự vật, hiện tượng được cải tạo. Chống tư tưởng chủ quan duy ý chí, nôn nóng, thiếu kiên nhẫnmà biểu hiện của nó là
tuyệt đối hoá vai trò, tác dụng của nhân tố con người; cho rằng con người có thể làm được tất cả những gì muốn mà không cần
chú trọng đến sự tác động của các quy luật khách quan, của các điều kiện vật chất cần thiết.
b) Phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức là nhấn mạnh tính độc lập tương đối, tính tích cực và tính năng động của ý thức
đối với vật chất bằng cách tăng cường rèn luyện, bồi dưỡng tư tưởng, ý chí phấn đấu, vươn lên, tu dưỡng đạo đức v.v nhằm xây
dựng đời sống tinh thần lành mạnh. Chống thái độ thụ động, trông chờ, ỷ lại vào hoàn cảnh khách quan vì như vậy là hạ thấp vai
trò tính năng động chủ quan của con người trong hoạt động thực tiễn dễ rơi vào chủ nghĩa duy vật siêu hình, chủ nghĩa duy vật tầm
thường; tuyệt đối hóa vật chất; coi thường tư tưởng, tri thức rơi vào thực dụng hưởng thụ v.v.

Hình thái kinh tế -xã hội?

Hình thái kinh tế -xã hội? Đáp. Câu trả lời gồm ba ý lớn 1) Khái niệm hình thái kinh tế-xã hội. Hình thái kinh tế-xã hội là phạm trù của chủ nghĩa duy vật biện chứng về xã hội dùng để chỉ xã
hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó, phù hợp với một trình độ nhất định
của lực lượng sản xuất và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy.
2) Cấu trúc của hình thái kinh tế-xã hội là hệ thống hoàn chỉnh, phức tạp, trong đó lĩnh vực kinh tế gồm các mặt cơ bản là lực lượng
sản xuất, quan hệ sản xuất, kiến trúc thượng tầng; ngoài ra, hình thái kinh tế-xã hội còn bao gồm các lĩnh vực chính trị, lĩnh vực tư
tưởng và lĩnh vực xã hội. Mỗi lĩnh vực của hình thái kinh tế-xã hội vừa tồn tại độc lập với nhau, vừa tác động qua lại, thống nhất với
nhau; chúng gắn bó với quan hệ sản xuất và cùng biến đổi với sự biến đổi của quan hệ sản xuất.
3) Quá trình lịch sử-tự nhiên của sự phát triển các hình thái kinh tế-xã hội. Các mặt của hình thái kinh tế-xã hội tác động qua lại với
nhau tạo nên các quy luật vận động, phát triển khách quan của xã hội. Chính sự tác động của các quy luật khách quan đó mà “sự
phát triển của các hình thái kinh tế-xã hội là một quá trình lịch sử-tự nhiên”. Lịch sử xã hội do con người làm ra; con người tạo ra
các quan hệ xã hội của mình và đó là xã hội. Nhưng sự vận động của xã hội lại tuân theo quy luật khách quan, không phụ thuộc
vào ý muốn của con người mà nguồn gốc sâu xa của sự thay thế nhau giữa các hình thái kinh tế-xã hội nằm ở sự phát triển của lực
lượng sản xuất, gây nên sự thay đổi của quan hệ sản xuất. Đến lượt mình, sự thay đổi của quan hệ sản xuất (với tư cách là cơ sở
hạ tầng) sẽ làm cho kiến trúc thượng tầng thay đổi và do vậy, hình thái kinh tế-xã hội này được thay thế bằng hình thái kinh tế-xã
hội khác cao hơn, tiến bộ hơn. Sự thay thế nhau như vậy giữa các hình thái kinh tế-xã hội là con đường phát triển chung của nhân
loại.
Tuy nhiên, con đường phát triển của mỗi dân tộc còn bị chi phối bởi các yếu tố khác như điều kiện tự nhiên, truyền thống văn hoá,
chính trị, quốc tế cụ thể v.v không giống nhau tạo nên sự đa dạng trong sự phát triển chung của nhân loại. Có những dân tộc tuần
tự trải qua, có những dân tộc bỏ qua một hay vài hình thái kinh tế-xã hội nào đó. Sự biến đổi đó của hình thái kinh tế-xã hội không
chịu sự tác động của con người mà tuân theo các quy luật xã hội khách quan trên; suy ra sự biến đổi này là quá trình lịch sử-tự
nhiên theo con đường tuần tự hoặc bỏ qua một hay vài hình thái kinh tế-xã hội nào đó.

Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức?

Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức?
Đáp. Câu trả lời có ba ý lớn Triết học của chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng con người tự làm ra mình và lịch sử của mình bằng hoạt động thực tiễn (thực tiễn). Đó
là cách hiểu về vai trò của thực tiễn với tư cách là điểm xuất phát của quan niệm duy vật về lịch sử và cũng là điểm xuất phát của lý
luận nhận thức duy vật biện chứng.
1) Thực tiễn là gì.
a) Định nghĩa. Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch sử-xã hội của con người nhằm cải biến tự
nhiên và xã hội. Thực tiễn là hoạt động khi con người sử dụng công cụ tác động vào đối tượng vật chất làm cho đối tượng đó thay
đổi theo mục đích của mình. Là hoạt động đặc trưng của bản chất con người, thực tiễn không ngừng phát triển bởi các thế hệ của
loài người qua các quá trình lịch sử.
b) Các hình thức của thực tiễn. Thực tiễn bao gồm những hình thức hoạt động khác nhau của xã hội như a) Hoạt động sản xuất vật
chất là hình thức cơ bản, quan trọng nhất của thực tiễn; là cơ sở vật chất cho các loại hoạt động khác của con người; là hoạt động
đã đưa con người từ trạng thái thú vật lên trạng thái con người; là hoạt động đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của con người
nói riêng và xã hội loài người nói chung. b) Hoạt động cải tạo xã hội là hoạt động nhằm cải tạo hiện thực xã hội, cải biến những
quan hệ xã hội nên hoạt động cải tạo xã hội có tác dụng trực tiếp đối với sự phát triển xã hội. c) Thực nghiệm là hình thức đặc biệt
của thực tiễn. Thực nghiệm bao gồm thực nghiệm sản xuất, thực nghiệm khoa học và thực nghiệm xã hội v.v được tiến hành trong
điều kiện nhân tạo nhằm rút ngắn thời gian của các quá trình biến đổi để dựa trên cơ sở đó nhận thức thế giới, chứng minh tính
chân thực của nhận thức. d) Các hoạt động thực tiễn không cơ bản như giáo dục, pháp luật, đạo đức v.v được mở rộng và có vai
trò ngày càng tăng đối với sự phát triển của xã hội.
c) Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
+) Thực tiễn là cơ sở của nhận thức. Thông qua hoạt động thực tiễn, con người nhận biết được cấu trúc; tính chất và các mối quan
hệ giữa các đối tượng để hình thành tri thức về đối tượng. Hoạt động thực tiễn bổ sung và điều chỉnh những tri thức đã được khái
quát. Thực tiễn đề ra nhu cầu, nhiệm vụ, cách thức và khuynh hướng vận động và phát triển của nhận thức. Chính nhu cầu giải
thích, nhận thức và cải tạo thế giới buộc con người tác động trực tiếp vào đối tượng bằng hoạt động thực tiễn của mình. Chính sự
tác động đó đã làm cho các đối tượng bộc lộ những thuộc tính, những mối liên hệ và các quan hệ khác nhau giữa chúng đem lại
cho con người những tri thức, giúp cho con người nhận thức được các quy luật vận động và phát triển của thế giới. Trên cơ sở đó
hình thành các lý thuyết khoa học.
+) Thực tiễn là mục đích của nhận thức. Nhận thức không chỉ thoả mãn nhu cầu hiểu biết mà còn đáp ứng nhu cầu nâng cao năng
lực hoạt động để đưa lại hiệu quả cao hơn, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của con người. Thực tiễn luôn vận động, phát triển
nhờ đó, thực tiễn thúc đẩy nhận thức vận động, phát triển theo. Thực tiễn đặt ra những vấn đề mà lý luận cần giải quyết.
+) Thực tiễn là động lực thúc đẩy quá trình vận động, phát triển của nhận thức. Hoạt động thực tiễn góp phần hoàn thiện các giác
quan, tạo ra khả năng phản ánh nhạy bén, chính xác, nhanh hơn; tạo ra các công cụ, phương tiện để tăng năng lực phản ánh của
con người đối với tự nhiên. Những tri thức được áp dụng vào thực tiễn đem lại động lực kích thích quá trình nhận thức tiếp theo.
+) Thực tiễn là tiêu chuẩn kiểm tra chân lý. Trong thực tiễn con người chứng minh chân lý. Mọi sự biến đổi của nhận thường xuyên
chịu sự kiểm nghiệm trực tiếp của thực tiễn. Thực tiễn có vai trò là tiêu chuẩn, thước đo giá trị của những tri thức đã đạt được,
đồng thời thực tiễn bổ sung, điều chỉnh, sửa chữa, phát triển và hoàn thiện nhận thức
Như vậy, thực tiễn vừa là yếu tố đóng vai trò quy định đối với sự hình thành và phát triển của nhận thức, mà còn là nơi nhận thức
phải luôn hướng tới để thể nghiệm tính đúng đắn của mình. Vì thế, thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức, vừa là
tiêu chuẩn để kiểm tra nhận thức.
3) Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức đòi hỏi chúng ta phải luôn quán triệt quan điểm thực tiễn. Quan điểm này yêu cầu a) việc
nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, coi trọng công tác tổng kết thực tiễn. b) việc nghiên cứu lý luận phải
liên hệ với thực tiễn; nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn đến bệnh chủ quan, duy ý chí, giáo điều, máy móc, quan liêu; ngược lại, nếu tuyệt
đối hoá vai trò của thực tiễn sẽ rơi vào chủ nghĩa thực dụng, kinh nghiệm chủ nghĩa.

Nguồn gốc của ý thức ,Bản chất của ý thức?

Câu hỏi 13. Nguồn gốc của ý thức?
Đáp. Câu trả lời có hai ý lớn 1) Nguồn gốc tự nhiên của ý thức (não người + sự phản ánh)
a) Não người là sản phẩm quá trình tiến hoá lâu dài của thế giới vật chất, từ vô cơ tới hữu cơ, chất sống (thực vật và động vật) rồi
đến con người- sinh vật-xã hội. Là tổ chức vật chất có cấu trúc tinh vi; chỉ khoảng 370g nhưng có tới 14-15 tỷ tế bào thần kinh liên
hệ với nhau và với các giác quan tạo ra mối liên hệ thu, nhận đa dạng để não người điều khiển hoạt động của cơ thể đối với thế
giới bên ngoài. Hoạt động ý thức của con người diễn ra trên cơ sở hoạt động của thần kinh não bộ; bộ não càng hoàn thiện hoạt
động thần kinh càng hiệu quả, ý thức của con người càng phong phú và sâu sắc. Điều này lý giải tại sao quá trình tiến hóa của loài
người cũng là quá trình phát triển năng lực của nhận thức, của tư duy và tại sao đời sống tinh thần của con người bị rối loạn khi
não bị tổn thương.
b) Sự phản ánh của vật chất là một trong những nguồn gốc tự nhiên của ý thức. Mọi hình thức vật chất đều có thuộc tính phản ánh
và phản ánh phát triển từ hình thức thấp lên hình thức cao- tùy thuộc vào kết cấu của tổ chức vật chất.
Phản ánh là sự tái tạo lại những đặc điểm, tính chất của dạng vật chất này (dưới dạng đã thay đổi) trong một dạng vật chất khác.
Quá trình phản ánh bao hàm quá trình thông tin, cái được phản ánh (tác động) là những sự vật, hiện tượng cụ thể của vật chất, còn
cái phản ánh (nhận tác động) là cái chứa đựng thông tin về những sự vật, hiện tượng đó. Các hình thức phản ánh. +) Phản ánh
của giới vô cơ (gồm phản ánh vật lý và phản ánh hoá học) là những phản ánh thụ động, không định hướng và không lựa chọn. +)
Phản ánh của thực vật là tính kích thích +) Phản ánh của động vật đã có định hướng, lựa chọn để nhờ đó mà động vật thích nghi
với môi trường sống. Trong phản ánh của động vật có phản xạ không điều kiện (bản năng); phản xạ có điều kiện (tác động thường
xuyên) ở động vật có thần kinh trung ương tạo nên tâm lý. Hình thức phản ánh cao nhất (phản ánh năng động, sáng tạo) làý thức
của con người, đặc trưng cho một dạng vật chất có tổ chức cao là não người. Tóm lại, sự phát triển của các hình thức phản ánh
gắn liền với các trình độ tổ chức vật chất khác nhau và ý thức nảy sinh từ các hình thức phản ánh đó.
Quan điểm trên của triết học của chủ nghĩa Mác-Lênin về ý thức chống lại quan điểm của chủ nghĩa duy tâm tách rời ý thức khỏi
hoạt động của não người, thần bí hoá ý thức; đồng thời chống lại quan điểm của chủ nghĩa duy vật tầm thường cho rằng não tiết ra
ý thức tương tự như gan tiết ra mật.
2) Nguồn gốc xã hội của ý thức (lao động + ngôn ngữ)
a) Lao động là hoạt động có mục đích, có tính lịch sử-xã hội của con người nhằm tạo ra của cải để tồn tại và phát triển; đồng thời
lao động cũng tạo ra đời sống tinh thần và hơn thế nữa, lao động giúp con người hoàn thiện chính mình. Sự hoàn thiện của đôi tay,
việc biết chế tạo công cụ lao động làm cho ý thức không ngừng phát triển, tạo cơ sở cho con người nhận thức những tính chất mới
của giới tự nhiên; dẫn đến năng lực tư duy trừu tượng, khả năng phán đoán, suy luận dần được hình thành và phát triển.
b) Trong quá trình lao động con người liên kết với nhau, tạo thành các mối quan hệ xã hội tất yếu và các mối quan hệ của các
thành viên của xã hội không ngừng được củng cố và phát triển dẫn đến nhu cầu cần thiết “phải trao đổi với nhau điều gì đấy” nên

ngôn ngữ xuất hiện. Ngôn ngữ ra đời trở thành “cái vỏ vật chất của ý thức”, thành phương tiện thể hiện ý thức. Nhờ ngôn ngữ, con
người khái quát hoá, trừu tượng hoá những kinh nghiệm để truyền lại cho nhau. Ngôn ngữ là sản phẩm của lao động, đến lượt nó,
ngôn ngữ lại thúc đẩy lao động phát triển.
Như vậy, bộ não người cùng với thế giới vật chất tác động lên bộ não đó là nguồn gốc tự nhiên của ý thức và với quan điểm như
vậy về ý thức, chủ nghĩa duy vật biện chứng chống lại quan điểm của chủ nghĩa duy tâm tách rời ý thức ra khỏi hoạt động của bộ
não, thần bí hoá ý thức; đồng thời chống lại quan điểm của chủ nghĩa duy vật tầm thường cho rằng não tiết ra ý thức tương tự như
gan tiết ra mật.
Câu hỏi 14. Bản chất của ý thức?
Đáp. Bản chất của ý thức thể hiện qua bốn điểm Điểm xuất phát để hiểu bản chất của ý thức là sự thừa nhận ý thức là sự phản ánh, là hình ảnh tinh thần về sự vật, hiện tượng
khách quan. Ý thức thuộc phạm vi chủ quan, không có tính vật chất, mà chỉ là hình ảnh phi cảm tính của các sự vật, hiện tượng
cảm tính được phản ánh. Bản chất của ý thức thể hiện ở sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan vào bộ não người;
là hình ảnh chủ quan về thế giới khách quan.
1) Ý thức là hình ảnh chủ quan về thế giới khách quan bởi hình ảnh ấy tuy bị thế giới khách quan quy định cả về nội dung lẫn hình
thức thể hiện; nhưng thế giới ấy không còn y nguyên như nó vốn có, mà đã bị cái chủ quan của con người cải biến thông qua tâm
tư, tình cảm, nguyện vọng, nhu cầu v.v. Ý thức “chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con người và được
cải biến đi ở trong đó”. Có thể nói, ý thức phản ánh hiện thực, còn ngôn ngữ thì diễn đạt hiện thực và nói lên tư tưởng. Các tư
tưởng đó được tín hiệu hoá trong một dạng cụ thể của vật chất- là ngôn ngữ- cái mà con người có thể cảm giác được. Không có
ngôn ngữ thì ý thức không thể hình thành và tồn tại được.
2) Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo, thể hiện ở chỗ, ý thức phản ánh thế giới có chọn lọc- tùy thuộc vào mục đích của
chủ thể nhận thức. Sự phản ánh đó nhằm nắm bắt bản chất, quy luật vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng; khả năng vượt
trước (dự báo) của ý thức tạo nên sự lường trước những tình huống sẽ gây tác động tốt, xấu lên kết quả của hoạt động mà con
người đang hướng tới. Có được dự báo đó, con người điều chỉnh chương trình của mình sao cho phù hợp với dự kiến xu hướng
phát triển của sự vật, hiện tượng; xây dựng các mô hình lý tưởng, đề ra phương pháp thực hiện phù hợp nhằm đạt kết quả tối ưu.
Như vậy, ý thức không chỉ phản ánh thế giới khách quan, mà còn tạo ra thế giới khách quan.
3) Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội. Sự ra đời và tồn tại của ý thức gắn liền với hoạt động thực tiễn; chịu
sự chi phối không chỉ của các quy luật sinh học, mà chủ yếu còn của các quy luật xã hội; do nhu cầu giao tiếp xã hội và các điều
kiện sinh hoạt hiện thực của xã hội quy định. Với tính năng động, ý thức đã sáng tạo lại hiện thực theo nhu cầu của bản thân và
thực tiễn xã hội. Ở các thời đại khác nhau, thậm chí ở cùng một thời đại, sự phản ánh (ý thức) về cùng một sự vật, hiện tượng có
sự khác nhau- theo các điều kiện vật chất và tinh thần mà chủ thể nhận thức phụ thuộc.
4) Có thể nói quá trình ý thức gồm các giai đoạn.
a) Trao đổi thông tin hai chiều giữa chủ thể với khách thể phản ánh; định hướng và chọn lọc các thông tin cần thiết.
b) Mô hình hoá đối tượng trong tư duy ở dạng hình ảnh tinh thần, tức là sáng tạo lại khách thể phản ánh theo cách mã hoá sự vật,
hiện tượng vật chất thành ý tưởng tinh thần phi vật chất.
c) Chuyển mô hình từ tư duy ra hiện thực, tức là quá trình hiện thực hoá tư tưởng, thông qua hoạt động thực tiễn biến các ý tưởng
tinh thần phi vật chất trong tư duy thành các sự vật, hiện tượng vật chất ngoài hiện thực. Trong giai đoạn này, con người lựa chọn
phương pháp, công cụ tác động vào hiện thực khách quan nhằm thực hiện mục đích của mình.

Quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất

3. Quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
3.1. Khái niệm lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất Lực lượng sản xuất là toàn bộ những năng lực sản xuất của một xã hội nhất định ở một thời kỳ nhất định. Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên. Nghĩa là trong quá trình thực hiện sự sản xuất xã hội, con người chinh phục giới tự nhiên bằng tổng hợp các sức mạnh hiện thực của mình. Sức mạnh đó được chủ nghĩa duy vật lịch sử khái quát trong khái niệm lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất nói lên năng lực thực tế của con người trong quá trình sản xuất. Lực lượng sản xuất bao gồm người lao động và tư liệu sản xuất. Tư liệu sản xuất bao gồm đối tượng lao động và tư liệu lao động. Trong tư liệu lao động có công cụ lao động hệ thống bình chứa và kết cấu hạ tầng. Người lao động là người tham gia vào quá trình sản xuất. Do đặc trưng sinh học – xã hội riêng có của mình, con người trong nền sản xuất xã hộicó sức mạnh và kỹ năng lao động hần kinh cơ bắp. Hơn nữa, lao động của con người ngày càng trở thành lao động có trí tuệ và lao động tí tuệ. Hàm lượng trí tuệ trong lao động, đặc biệt trong điều kiện của khoa học, công nghệ hiện nay đã làm cho con người trở thành một nguồn lực đặt biệt, cơ bản và vô tận của sản xuất. 2

Cùng với sự phát triển của sản xuất, khoa học ngày càng có vai trò quan trọng trong sản xuất. Khoa học đã phát triển đến mức trở thành nguyên nhân trực tiếp của nhiều biến đổi to lớn. Khoa học và công nghệ hiện đại chính là đặc điểm thời đại của sản xuất và do vậy nó hoàn toàn có thể được coi là cái đặc trưng cho lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng. Sở dĩ quá trình sản xuất xã hội có thể diễn ra một cách bình thường, chính là mối quan hệ giữa con người với con người tồn tại thống nhất với mối quan hệ giữa con người với tự nhiên. Mối quan hệgiữa con người với tự nhiên được xây dựng trong và thông qua những quan hệ khác nhau giữa người với người, tức quan hệ sản xuất. Những quan hệ này tuân theo những quy luật tất yếu, khách quan của sự vận động của đời sống xã hội. Quan hệ sản xuất thể hiện trên ba mặt: sở hữu đối với tư liệu sản xuất; quan hệ trong tổ chức quản lý sản xuất; các quan hệ trong phân phối sản phẩm. Với tính cách là những quan hệ kinh tế khách quan, quan hệ sản xuất là những quan hệ mang tính vật chất, là hình thức xã hội của lực lượng sản xuất. Ba mặt quan hệ luôn gắn bó với nhau, tạo thành một hệ thống mang tính ổn định của lực lượng sản xuất và là cơ sở sâu xa của đời sống tinh thần xã hội. Ba mặt đó gắn bó với nhau, tạo thành một hệ thống mang tính ổn định tương đối so với lực lượng sản xuất. Trong các quan hệ trên thì quan hệ sở hữu luôn đóng vai trò quyết định. Vì nó quy định địa vị của từng tập đoàn trong hệ thống sản xuất. Theo đó, ai nắm tư liệu sản xuất, người đó quy định cách thức trao đổi hoạt động, tổ chức quản lý và phương thức phân phối sản phẩm. Các quan hệ về mặt tổ chức quản lý, có khả năng quyết định một cách trực tiếp quy mô, tốc độ, hiệu quảvà xu hướng của mỗi nền sản xuất. Các quan hệ phân phối là “chất xúc tác” của quá trình kinh tế – xã hội.
PTSX có hai mặt là lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
PTSX
LLSX QHSX -(SỞ HỮU TLSX,TỔ CHỨC SX ,PHÂN PHỐI )
-NLĐ
-TLSX
+ ĐTLĐ( CÁI CÓ SẲN ,NG.LIỆU)
+ TLLĐ ( CCLĐ , HTBC ,KKHT)
3.2. Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất Trình độ của lực lượng sản xuất nói lên khả năng con người, thông qua việc sử dụng công cụ lao động, thực hiện quá trình cải biến giới tự nhiên. Trình độ lực lượng sản xuất thể hiện trình độ của công cụ lao động; trình độ tổ chức lao động xã hội; trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất; kinh nghiệm và kỷ năng lao động; trình độ phân công lao động. Tính chất của lực lượng sản xuất là xét ở góc độ tính chất cá nhân tư nhân hay xã hội. Khi lực lượng sản xuất được thực hiện với những công 3

cụ ở trình độ thủ công thì lực lượng sản xuất thể hiện tính chất cá nhân. Khi sản xuất đạt tới trình độ cơ khí hoá thì lực lượng sản xuất mang tính chất xã hội hoá. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một trạng thái mà ở đó các yếu tố cấu thành của quan hệ sản xuất tạo ra sự thuận lợi cho lực lượng sản xuất phát triển. Trạng thái mâu thuẫn xuất hiện khi lực lượng sản xuất chuyển sang một trình độ mới với tính chất xã hội hoá ngày càng cao; trong khi quan hệ sản xuất trở thành xiềng xích của lực lượng sản xuất. Điều đó đòi hỏi phải xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ, thiết lập quan hệ sản xuất mới phù hợp; đưa đến sự diệt vong của phương thức sản xuất lỗi thời và sự ra đời của phương thức sản xuất mới. Mác nói, những quan hệ xã hội đều gắn liền mật thiết với những lực lượng sản xuất. Do có được những lực lượng sản xuất mới, loài người thay đổi phương thức sản xuất của mình, và do thay đổi phương thức sản xuất, cách kiếm sống của mình, loài người thay đổi tất cả những quan hệ xã hội. Tóm lại: - Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất trên các mặt:
+ Hình thức của quan hệ sản xuất.
+ Sự biến đổi của quan hệ sản xuất.
- Quan hệ sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất: theo hai hướng:
+ Quan hệ sản xuất thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển khi quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. + Quan hệ sản xuất kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển khi quan hệ sản xuất không phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.

Vai trò của lãnh tụ

Vai trò của quần chúng nhân dân: Quần chúng nhân dân là người sáng tạo chân chính ra lịch sữ, là chủ thể của lịch sữ. + Họ là người trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất và của cải tinh thần của xã hội- nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người.
+ Họ là chủ thể của hoạt động cải tạo các quá trình kinh tế, xã hội, chính trị
+ Lợi ích của quần chúng nhân dân vừa là điểm khởi đầu vừa là mục đích cuối
cùng của các hành động cách mạng. + Trong bất kì thời đại nào, quần chúng nhân dân cũng là người sáng tạo ra lịch sữ. nhưng trình độ sáng tạo của quần chúng nhân dân ddeens mức nào là tùy thuộc vào tính tích cực, vao tri thức của quần chúng về tự nhiên và xã hội, vào trình độ tổ chức của quần chúng…Tất cả những cái đó là phụ thuộc vào phương thức sản xuất, vào chế độ xã hội. Vai trò sáng tạo của quần chúng nhân dân ngày càng tăng cùng với sự phát triển của xã hội. Đó là một quy luật phất triển của xã hội. + Trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, để phát huy mạnh mẽ vai
trò tích cực, sáng tạo của quần chúng nhân dân, Đảng ta chủ trương đổi mới toàn diện,
xây dựng một hệ thống quan hệ giữa người và người thực hiện quyền làm chủ của nhân
dântrên tất cả các mặt của đời sống xã hội; đồng thời đề ra nhưng biện pháp có hiệu lực
để động viên nhân dân tích cực tham gia cuộc đấu tranh xóa bỏ hiện tượng quan liêu
tham nhũng, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân của nững phần tử thoái hóa, biến chất
trong bộ máy Đảng và nhà nước, lấy lại lòng tin trong nhân dân, làm cho nhân dân gắn bó
với Đảng và nhà nước
Vai trò của vĩ nhân - lãnh tụ: Trong mối quan hệ với quần chúng nhân dân, lãnh tụ có nhưng chức năng chủ
yếu: định hướng chiến lược, sách lược trên cơ sỡ nắm bắt những quy luật khách quan của
các quá trình kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước và thời đại; tổ chức lực lương, giáo
dục, thuyết phục quần chúng nhân dân hướng vào giãi quyết những vấn đề then chốt nhất,
từ đó, có khả năng giải quyết có hiệu quả những vấn đè phức hợp, tổng thể các nhiệm vụ
của đất nước và thời đại; đại biểu cho nguyện vọng và lợi ích của dân tộcvà quần chúng
nhân dân.
Vai trò của lãnh tụ biểu hiên ở: + lãnh tụ là người thúc đẩy nhanh tiến trình cách mạng, mang lại hiểu quả cao
nhất cho hoạt động của quần chúng nếu lãnh tụ có tài, đức cao, gắn bó mật thiết với quần
chúng và đem lại lợi ích thiết thực cho quần chúng. Lãnh tụ thường là người sáng lập ra
các tổ chức, chính trị, xã hội, tập hợp được nhân tài và là linh hồn của các tổ chức đó.
+ Lãnh tụ của mỗi thời đại chỉ có thể hoàn thành nhiệm vụ của thời đại họ. Không
có lãnh tụ chung cho mọi thời đại. Sau khi hoàn thành chức năng lãnh đạo quần chúng
nhân dân, lãnh tụ đi vào lịch sữ như những vĩ nhân và sống mãi trong tâm tưởng của các
thời đại.

1. Quần chúng nhân dân có vai trò như thế nào trong lịch sử? Điều đó rút ra được ý nghĩa gì?

1. Quần chúng nhân dân có vai trò như thế nào trong lịch sử? Điều
đó rút ra được ý nghĩa gì?
Ý1) Vai trò của QCND trong lịch sử (4 điểm)
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người đã có nhiều quan niệm về
vai trò của quần chúng nhân dân đối với lịch sử khác nhau, thậm chí l à đối
lập nhau. Chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo, giai cấp thống trị áp bức, bóc lột họ
coi thường và đi đến phủ nhận vai trò của QCND trong lịch sử, họ cho rằng
cá nhân, anh hùng, lãnh tụ đóng vai trò quyết định, quần chúng nhân dân chỉ
là những người để cá nhân, lãnh tụ sai khiến.
Triết học Mác-Lênin cho rằng quần chúng nhân dân đóng vai tr ò quyết
định, là người sáng tạo chân chính ra lịch sử, còn cá nhân có vai trò to lớn
quan trọng trong quá trình đó. Triết học Mác-Lênin khẳng định điều đó dựa
vào các căn cứ sau:
- Quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra của cải vật chất -cơ sở
cho sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người.
Xã hội muốn tồn tại và phát triển thì cần phải LĐSX ra của cải vật chất để
thỏa mãn những nhu cầu của con người và xã hội. Chính QCND là những
người lao động sản xuất ra những của cải ấy.
- Quần chúng nhân dân là lực lượng cơ bản của mọi cuộc cách mạng
xã hội.
Như chúng ta đã biết, QCND là những người bị thống trị, áp bức, bóc lột,
đó là giai cấp đối kháng với giai cấp thống trị, áp bức, bóc lột. Cuộc đấu
tranh đó tất yếu dẫn đến đỉnh cao là cách mạng xã hội, cách mạng xã hội sẽ
làm thay thế hình thái kinh tế-xã hội này bằng hình thái kinh tế-xã hội khác
cao hơn.
- Quần chúng nhân dân còn là người sáng tạo ra những giá trị tinh
thần của xã hội.
Lịch sử của loài người không chỉ là lịch sử của lao động sản xuất của cải
vật chất, của đấu tranh giai cấp, của cách mạng xã hội mà còn là lịch sử của
lao động sản xuất của cải tinh thần. QCND l à chủ thể sáng tạo và hưởng thụ
của cải tinh thần. QCND vừa l à người trực tiếp, vừa là người gián tiếp sáng
tạo và hưởng thụ của cải tinh thần.
- Ngoài ra, Lợi ích của quần chúng nhân dân vừa l à điểm khởi đầu,
vừa là điểm kết thúc của mọi sự biến đổi trong x ã hội-lịch sử.
Khẳng định vai trò quyết định của quần chúng nhân dân, triết học Mác -
Lênin không hề xem nhẹ vai trò của cá nhân, anh hùng, lãnh tụ trong lịch sử.Cá nhân, anh hùng, lãnh tụ có vai trò to lớn trong lịch sử, điều đó phụ thuộc
vào nhiều yếu tố, trong đó yếu tố quyết định vẫn l à vai trò quyết định của
quần chúng nhân dân, nhân cách của cá nhân.
Ý2) Ý nghĩa (1 điểm)
Quan điểm về quần chúng nhân dân và vai trò của quần chúng nhân dân
trong lịch sử của triết học Mác-Lênin có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn.
Nó góp phần phê phán những quan điểm không đúng đắn, sai lầm, thậm chí
là phản động trong hiện thực như coi thường, hoặc phủ nhận vai trò của
quần chúng nhân dân, đề cao vai trò của cá nhân, cho rằng cá nhân quyết
định lịch sử, chống tệ sùng bái cá nhân...; mặt khác, giáo dục lòng tôn kính
lãnh tụ đối với nhân dân.